Hội nhập
Ghi danh
1:47 CH
Thứ Ba
16
Tháng Tư
2024
31 Tháng Mười 20237:00 SA(Xem: 1743)
1. Những ai trung thành phụng sự Mẹ bằng cách lần Chuỗi Mân Côi sẽ nhận được những ơn cao cả. 2. Mẹ hứa sẽ ban những ơn lớn lao và sự che chở đặc biệt cho những ai lần Chuỗi Mân Côi. 3. Kinh Mân Côi sẽ là vũ khí cực mạnh chống lại hỏa ngục, tiêu diệt thói xấu, giảm tẩy tội lỗi và chiến thắng ma quỷ. 4. Kinh Mân Côi sẽ khiến nhân đức và các việc lành phát triển; sẽ đem lại nhiều lòng thương xót của Chúa xuống trên các linh hồn; sẽ rút lòng họ khỏi sự yêu mến thế tục và sự hư ảo của nó, và sẽ dẫn đưa họ đến ước ao những sự vĩnh cửu. Ôi, những linh hồn ấy sẽ được thánh hóa biết bao bởi những ý nghĩa này!
20 Tháng Năm 20218:30 CH(Xem: 5073)
Trong những khó khăn và nguy hiểm, hãy nhớ đến Mẹ – hãy réo gọi Mẹ! Đừng để danh thánh Mẹ rời xa môi miệng bạn. Hãy tưởng nghĩ đến Mẹ luôn luôn! Có Mẹ, bạn sẽ không lạc lối. Được Mẹ chở che, bạn sẽ không sợ gì. Mẹ sẽ dẫn bạn đến với Chúa Giêsu, Đấng Cứu Độ của bạn!”
07 Tháng Mười 20161:17 CH(Xem: 15698)
Ở thành Chieti miền Naple, có một người làm nghề đặt nợ ăn lãi. Y chẳng biết ai, chỉ biết có tiền. Với hạng khổ rách áo ôm y cũng chẳng thông cảm mà còn bóc lột tận xương tủy, chẳng tha. Chúa đã phạt y phải bệnh phong hủi từ đầu đến chân. Bao nhiêu tiền của đổ ra để uống thuốc cũng đều vô ích, tiền mất tật mang. Không còn trông được người thế gian cứu chữa, Y chạy đến Đức Mẹ Loretta và vẫn tha thiết xin Mẹ cứu chữa rồi sai người bỏ vào hòm tiền khấn nơi bàn thờ Đức Mẹ một trăm đồng vàng.
BÀI MỚI NHẤT
Còn theo Đức Phanxicô: “Kinh Mân Côi là kinh đi theo tôi suốt đời. Đó là kinh của những người đơn sơ và của các thánh.” Trong phần kết luận, linh mục Amorth nhấn mạnh đến vai trò trọng tâm của Mẹ Maria trong cuộc chiến chống sự dữ. Một cuộc chiến mà cá nhân ngài, trong tư cách là người trừ quỷ ngài đã chạm trán, đối với ngài, đây là cuộc chiến thách đố lớn nhất của thời buổi này.
Và rồi đêm nào cũng thế.. cho đến một lần kia anh tìm được cây thập giá vừa ý nhất, nhẹ nhàng và êm ái nhất, vác về nhà. Nhưng ôi khi nhìn kỹ lại thì ra đó chính là cây thập giá đầu tiên mà Chúa đã trao cho anh ngày nào !
Con xin kính chào quý Tuyên Uý, quý anh chị trong Ban Chấp Hành Tổng Hội Mân Côi. Con mới bổ nhiệm chị Lucia Trần thị Hội làm Hội trưởng MC tại Tp Portland.
KHÁCH THĂM VIẾNG
100,000

MỘT SỐ Ý NGHĨA THÁNH KINH CỦA LỄ TRO

17 Tháng Hai 20237:45 SA(Xem: 1724)
MỘT SỐ Ý NGHĨA THÁNH KINH CỦA LỄ TRO
H: Thứ tư Lễ Tro là gì?
Le_tro_1T: Thứ tư Lễ Tro là ngày bắt đầu Mùa Chay. Mùa Chay kéo dài bốn mươi ngày đến trước Thánh lễ Tiệc Ly.
H: Có phải thứ tư Lễ Tro bắt nguồn từ lễ hội ngoại giáo?
T: Hoàn toàn không. Thứ tư Lễ Tro chính thức bắt đầu vào khoảng năm 900 AD, ngay cả trước khi châu Âu được Kitô hóa và tín ngưỡng ngoại giáo dần dần bị xóa bỏ.
H: Tại sao lại gọi là thứ tư Lễ Tro?
T: Thực ra, thứ tư Lễ Tro là tên gọi thông thường. Tên chính thức là Ngày Xức Tro (Dies cinerum). Đó có thể được gọi là ngày Yom Kippur (Ngày xá tội) của Giáo hội. Nó được gọi là thứ tư Lễ Tro bởi vì, trước Thánh lễ Tiệc Ly bốn mươi ngày, nó luôn rơi vào thứ tư và nó được gọi như thế bởi vì vào ngày đó tại nhà thờ, các tín hữu được ghi dấu thánh giá với tro trên trán.
H: Tại sao họ lại ghi dấu thánh giá trên trán?
T: Bởi vì theo Kinh Thánh, ghi một dấu trên trán là biểu tượng về quyền sở hữu của một người. Bằng cách để trán của mình được ghi dấu thánh giá, điều này nói lên rằng người đó thuộc về Chúa Giêsu Kitô, Đấng đã chết trên Thập giá.
Điều này là để mô phỏng dấu ấn thiêng liêng hoặc ấn tín đã được ghi trên một Kitô hữu khi họ chịu phép Rửa tội. Trong Bí tích này họ được giải thoát khỏi nô lệ tội lỗi và ma quỷ để trở thành con cái của sự công chính và của Chúa Kitô (Rm 6,3-18).
Nó cũng phỏng theo cách mà những người công chính được mô tả trong sách Khải Huyền, nơi chúng ta đọc thấy các tôi tớ của Thiên Chúa được bảo vệ: gồm có một trăm bốn mươi bốn ngàn người được đóng ấn:
“Xin đừng phá hại đất liền, biển cả và cây cối, trước khi chúng tôi đóng ấn trên trán các tôi tớ của Thiên Chúa chúng ta.” (Kh 7,3)
“Chúng [châu chấu] bị cấm không được phá hại cỏ trên mặt đất, mọi loài xanh tươi và mọi cây cối, mà chỉ được phá hại những người không mang ấn của Thiên Chúa trên trán” (Kh 9,4)
“Tôi thấy: kìa Con Chiên đứng trên núi Sion; cùng với Con Chiên, có một trăm bốn mươi bốn ngàn người, mang danh của Con Chiên và của Cha Con Chiên ghi trên trán.” (Kh 14,1)
Điều này trái ngược với những người đi theo Con Thú, gồm có sáu trăm sáu mươi sáu người được thích dấu trên trán hoặc bàn tay của họ.
Đề cập đến việc đóng ấn trên các tôi tớ của Thiên Chúa để bảo vệ họ trong sách Khải Huyền quy chiếu về một đoạn song song trong sách tiên tri Êdêkien, nơi ông cũng thấy việc đóng ấn các tôi tớ của Thiên Chúa là để bảo vệ họ:
“Và Đức Chúa phán với người ấy: ‘Hãy rảo khắp thành, khắp Giêrusalem. Hãy ghi dấu chữ thập trên trán những người đang rên siết khóc than về mọi điều ghê tởm đang xảy ra trong khắp thành.’ Tôi lại nghe Đức Chúa phán với năm người kia: ‘Hãy đi theo người ấy vào thành mà chém giết. Đừng nhìn mà thương hại, đừng xót thương. Người già, thanh niên, thiếu nữ, cũng như đàn bà con trẻ, các ngươi hãy giết cho sạch; nhưng tất cả những ai mang dấu trên mình, các ngươi chớ đụng đến. Các ngươi sẽ bắt đầu từ Nơi Thánh của Ta.’ Và họ đã bắt đầu từ đàn ông, từ người già ở trước Đền Thờ.” (Ed 9,4-6)
Những gì bản văn này thực sự diễn tả, có nghĩa là vạch một chữ tav lên trán của những cư dân chính trực của Giêrusalem. Tav là một trong những chữ cái của bảng chữ cái Hípri, và trong chữ viết cổ, nó trông giống như chữ chi trong tiếng Hy Lạp, có hai dòng gạch chéo nhau (giống như chữ “X”) và là chữ cái đầu tiên trong từ “Kitô”, tiếng Hy Lạp là Christos. Các giáo sĩ Do Thái bình giải về mối liên hệ giữa hai chữ tav và chi và cho rằng đây là dấu mà sách Khải Huyền ghi khi các tôi tớ của Thiên Chúa được đóng ấn.
Các Giáo phụ thời đầu của Giáo hội nắm bắt mối liên hệ tav-chi-thập giá-christos này và giải thích nó trong các bài giảng của các ngài. Các ngài nhìn thấy ở lời tiên tri Êdêkien một hình bóng về việc các Kitô hữu được đóng ấn làm tôi tớ của Chúa Kitô. Đây cũng là nền tảng cho việc thực hành Công giáo về việc làm dấu thánh giá, trong những thế kỷ đầu (có lẽ từ thế kỷ thứ hai trở đi) được thực hiện bằng cách dùng ngón tay cái vẽ hình một dấu thánh giá nhỏ trên trán. Và trước khi đọc Tin Mừng trong Thánh lễ, người Công giáo ghi ba hình Thánh giá, trên trán, trên miệng và trên ngực.
H: Tại sao vẽ hình thánh giá bằng tro?
T: Bởi vì tro là một biểu tượng kinh thánh về sự than khóc và đền tội. Vào thời Kinh Thánh được biên soạn, thực hành việc thống hối và đền tội thể hiện qua việc ăn chay, mặc áo nhặm, ngồi trong đống tro bụi, và phủ tro lên đầu hối nhân. Mặc dù chúng ta không còn mặc áo nhặm hay ngồi trong bụi tro nữa, việc thực hành ăn chay và xức tro lên trán biểu tỏ một dấu hiệu về sự đau buồn và sám hối vẫn tồn tại cho đến ngày nay. Đây là hai tâm tình chính của Mùa Chay. Quả thực, thứ tư Lễ Tro là một ngày không chỉ xức tro lên đầu mà còn là ngày ăn chay.
H: Có những ví dụ nào trong Kinh Thánh nói đến việc người ta xức tro lên trán?
T: Có một số ví dụ sau đây:
“Một người thuộc chi tộc Bengiamin từ mặt trận chạy về, và ngay hôm đó tới Silô, áo quần xé rách, đầu thì rắc đất.” (1 Sm 4,12)
“Sang ngày thứ ba, có một người từ trại, từ bên vua Saun đến, áo quần xé rách, đầu thì rắc đất. Khi đến gần ông Đavít, anh ta sấp mình xuống đất và sụp lạy.” (2 Sm 1,2)
“Tama lấy tro bụi rắc lên đầu, xé cái áo chùng dài tay cô đang mặc, đặt tay lên đầu, vừa đi vừa kêu la.” (2 Sm 13,19)
“Khi vua Đavít lên tới đỉnh, nơi người ta thờ lạy Thiên Chúa, thì này ông Khusai, người Ácki, đón gặp vua, áo chùng ông xé rách, đầu thì rắc đất.” (2 Sm 15,32)
H: Có những ý nghĩa thánh kinh nào về tro?
T: Có. Tro bụi tượng trưng cho cái chết và do đó nhắc nhở chúng ta về cái chết của mình. Vì vậy, khi linh mục dùng ngón tay cái của mình thấm tro để vạch hình thánh giá trên trán cho các tín hữu ngài có thể nói: “Hỡi người, hãy nhớ mình là bụi tro và sẽ trở về bụi tro”, được mô phỏng theo lời Chúa nói với Ađam (Sáng thế 3,19 ; x. Gióp 34,15; Thánh vịnh 90,3; 104, 29; Giảng viên 3,20). Lời này cũng được lấy lại trong lễ nghi an táng: “Tro trở về tro; cát bụi trở về cát bụi ”, dựa trên lời Đức Chúa nói với Ađam trong Sáng thế 3 và lời thú nhận của Ápraham, “Tôi chẳng là gì ngoài cát bụi ” (Sáng thế 18,27). Do đó, nó là một lời nhắc nhở về sự chết của chúng ta, đồng thời hối thúc chúng ta thống hối trước khi cuộc sống này kết thúc và chúng ta phải đối diện với Đấng xét xử mình.
H: Tro sử dụng trong thứ tư Lễ Tro lấy từ đâu?
T: Tro ấy được tạo ra bằng cách đốt những cành lá được giữ lại từ Chúa nhật Lễ Lá của năm trước, rồi được linh mục làm phép. Tro đã được sử dụng trong các nghi lễ của dân Do Thái từ thời Môsê (Ds 19, 9-10, 17).
H: Tại sao tro từ Chúa Nhật Lễ Lá của năm trước được sử dụng?
T: Bởi vì Chúa nhật Lễ Lá là biến cố dân chúng cùng với Chúa Giêsu khải hoàn tiến vào thành Giêrusalem trong sự hân hoan vui mừng. Họ cử hành sự xuất hiện của Người bằng cách reo hò vẫy những cành lá cọ, nhưng họ không biết rằng Người sắp chết vì tội lỗi của họ. Khi sử dụng những cành lá của Chúa nhật Lễ Lá, chúng ta được nhắc nhở rằng chúng ta không chỉ vui mừng trước sự xuất hiện của Chúa Giêsu mà còn thống hối tội lỗi khiến Người phải chết nhục nhã để cứu chúng ta thoát khỏi hình phạt muôn đời.
H: Các tín hữu có buộc phải chịu xức tro trên trán không?
T: Không, không bắt buộc. Tuy nhiên, điều này rất được khuyến khích vì đây là một lời nhắc nhở thiêng liêng rất phù hợp, thể hiện hiện thái độ cầu nguyện, thống hối và khiêm tốn một cách cụ thể. Như thánh Giacôbê đã nói: “Anh em hãy hạ mình xuống trước mặt Chúa và Người sẽ cất nhắc anh em lên”. (Gc 4,10)
H: Thứ tư Lễ Tro có phải là một ngày lễ buộc không, tức là một ngày chúng ta phải tham dự Thánh lễ?
T: Không, đó không phải là ngày lễ buộc. Tuy nhiên, tham dự Thánh lễ sốt sắng rất đáng khuyến khích, bởi vì khởi đầu Mùa Chay bằng một Thánh lễ thật là thích hợp. Thờ phượng Chúa một cách sốt sắng cùng với cộng đoàn anh chị em tín hữu là một cách tốt để đi vào Mùa Chay thánh. Ngoài ra, mặc dù đó không phải là ngày lễ buộc, Giáo hội dạy chúng ta ăn chay và kiêng thịt.
Linh mục Giuse Ngô Quang Trung
"Ngươi không được tạc tượng, vẽ hình bất cứ vật gì ở trên trời cao, cũng như dưới đất thấp, hoặc ở trong nước phía dưới mặt đất, để mà thờ. Ngươi không được phủ phục trước những thứ đó mà phụng thờ: vì Ta, ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của ngươi (Xh 20,4-5) Sách Đệ nhị luật viết thêm: "Vì ngươi đã không nhìn thấy một hình thể nào trong ngày Chúa nói với ngươi từ trong khối lửa ở núi Horeb, cho nên ngươi đừng để mình bị suy đồi, đừng làm một hình ảnh nào, điêu khắc, tượng trưng cho bất cứ vật gì" (Đnl 4,15-16). Đàng khác, tâm trí người thời Cựu ước còn dễ "lẫn lộn" giữa Thiên Chúa và thần linh ngoại giáo nên Chúa phải cấm ngặt. Nhưng dần dần, Chúa cũng cho họ những biểu tượng như "cho đúc con rắn bằng đồng, làm khám chứng thư và các thiên thần kêrubim".
-Để bảo vệ đức tin duy nhất cho tín hữu, Giáo hội dạy: Những kinh không có Imprimatur (được in) của ĐGM địa phương thì không được đọc trong nhà thờ, nhà nguyện giáo xứ, cộng đoàn (theo ý Giáo luật số 827, 4). Nhưng ông bạn thấy không có điều gì trái tín lí, luân lí của Hội thánh như đã học biết, thì có thể đọc riêng như một lời cầu nguyện, nếu hợp với mình. Không thích thì đốt bỏ đi cách tử tế. Dầu sao cũng nên tôn kính hình ảnh đạo.
" Ảnh tượng đã làm phép, đã cũ nát, được đốt hay xé bỏ đi cách trọng kính. Các tranh ảnh, bìa báo in hình Chúa Đức Mẹ chưa làm phép có thể xé bỏ, không phải áy náy (nguyên tắc luân lý). Thực tế: Thế nhưng đối với nhiều người công giáo Việt, vứt bỏ ảnh tượng, xé đi, đốt đi, họ không đành lòng, giữ lại thì nhiều quá, không biết để đâu. Xin đề nghị một giải pháp dung hòa: Những tượng ảnh nào còn dư không dùng tới khi di chuyển sang nhà mới, nên bỏ vào một thùng giấy, dán vài chữ " Ai muốn lấy, mời tự nhiên". Rồi xin phép cha sở, cha quản nhiệm, đem ra để cuối nhà thờ cho những ai cần thì đem về thờ, kính tại nhà họ...
Đáp: Cám ơn ông đã đặt câu hỏi. Có lẽ lu bu nhiều chuyện nên các "linh mục có trách nhiệm" quên nhắc cho giáo dân. Tiện đây, tôi xin nhắc lại những điều tốt đẹp và sinh nhiều ơn ích này: - Điều thuộc đức tin là: "Giáo hội có quyền ban Ân xá". (sách Denzinger giữ các tài liệu của Tòa thánh số: 989,998). - Ân xá là ơn Giáo hội ban nhờ công nghiệp Chúa Giêsu, Đức Mẹ và các Thánh, để tha hình phạt tạm người ta phải chịu bởi những tội đã được Chúa tha.
Ân xá là ơn Giáo hội ban nhờ công nghiệp Chúa Giêsu, Đức Mẹ và các Thánh, để tha hình phạt tạm người ta phải chịu bởi những tội đã được Chúa tha. Ân xá có hai loại: Đại xá (tha hết), và Tiểu xá (tha một phần). Mọi tín hữu có thể lãnh đại xá, tiểu xá cho mình hoặc nhường lại cho người đã qua đời (Giáo Luật 994). Muốn hưởng ân xá, tín hữu phải có những điều kiện sau:
1. Phải đọc kinh hay làm việc Giáo hội dạy để lãnh ân xá. Trước khi đọc kinh hay làm việc ấy phải giục lòng ăn năn chê ghét dốc lòng chừa mọi tội trọng, tội nhẹ đã phạm Tông huấn Ânxá 26). 2. -Xưng tội ít nhiều ngày trước hoặc sau ngày lãnh đại xá (hiểu là trước sau vài 3 tuần). -Rước lễ chính ngày lãnh đại xá.
Ăn chay là hình thức đền tội của Cựu Ước và Tân Ước. Chúa Giêsu giữ chay 40 đêm ngày để làm gương cho các tín hữu. Trong GHCG, ăn chay kiêng thịt có mục đích và ý nghĩa như sau: