Hội nhập
Ghi danh
3:55 SA
Thứ Sáu
29
Tháng Ba
2024
31 Tháng Mười 20237:00 SA(Xem: 1538)
1. Những ai trung thành phụng sự Mẹ bằng cách lần Chuỗi Mân Côi sẽ nhận được những ơn cao cả. 2. Mẹ hứa sẽ ban những ơn lớn lao và sự che chở đặc biệt cho những ai lần Chuỗi Mân Côi. 3. Kinh Mân Côi sẽ là vũ khí cực mạnh chống lại hỏa ngục, tiêu diệt thói xấu, giảm tẩy tội lỗi và chiến thắng ma quỷ. 4. Kinh Mân Côi sẽ khiến nhân đức và các việc lành phát triển; sẽ đem lại nhiều lòng thương xót của Chúa xuống trên các linh hồn; sẽ rút lòng họ khỏi sự yêu mến thế tục và sự hư ảo của nó, và sẽ dẫn đưa họ đến ước ao những sự vĩnh cửu. Ôi, những linh hồn ấy sẽ được thánh hóa biết bao bởi những ý nghĩa này!
20 Tháng Năm 20218:30 CH(Xem: 5012)
Trong những khó khăn và nguy hiểm, hãy nhớ đến Mẹ – hãy réo gọi Mẹ! Đừng để danh thánh Mẹ rời xa môi miệng bạn. Hãy tưởng nghĩ đến Mẹ luôn luôn! Có Mẹ, bạn sẽ không lạc lối. Được Mẹ chở che, bạn sẽ không sợ gì. Mẹ sẽ dẫn bạn đến với Chúa Giêsu, Đấng Cứu Độ của bạn!”
07 Tháng Mười 20161:17 CH(Xem: 15609)
Ở thành Chieti miền Naple, có một người làm nghề đặt nợ ăn lãi. Y chẳng biết ai, chỉ biết có tiền. Với hạng khổ rách áo ôm y cũng chẳng thông cảm mà còn bóc lột tận xương tủy, chẳng tha. Chúa đã phạt y phải bệnh phong hủi từ đầu đến chân. Bao nhiêu tiền của đổ ra để uống thuốc cũng đều vô ích, tiền mất tật mang. Không còn trông được người thế gian cứu chữa, Y chạy đến Đức Mẹ Loretta và vẫn tha thiết xin Mẹ cứu chữa rồi sai người bỏ vào hòm tiền khấn nơi bàn thờ Đức Mẹ một trăm đồng vàng.
BÀI MỚI NHẤT
Còn theo Đức Phanxicô: “Kinh Mân Côi là kinh đi theo tôi suốt đời. Đó là kinh của những người đơn sơ và của các thánh.” Trong phần kết luận, linh mục Amorth nhấn mạnh đến vai trò trọng tâm của Mẹ Maria trong cuộc chiến chống sự dữ. Một cuộc chiến mà cá nhân ngài, trong tư cách là người trừ quỷ ngài đã chạm trán, đối với ngài, đây là cuộc chiến thách đố lớn nhất của thời buổi này.
Và rồi đêm nào cũng thế.. cho đến một lần kia anh tìm được cây thập giá vừa ý nhất, nhẹ nhàng và êm ái nhất, vác về nhà. Nhưng ôi khi nhìn kỹ lại thì ra đó chính là cây thập giá đầu tiên mà Chúa đã trao cho anh ngày nào !
Con xin kính chào quý Tuyên Uý, quý anh chị trong Ban Chấp Hành Tổng Hội Mân Côi. Con mới bổ nhiệm chị Lucia Trần thị Hội làm Hội trưởng MC tại Tp Portland.
KHÁCH THĂM VIẾNG
100,000

Catholic and Christian

21 Tháng Mười Một 201312:00 SA(Xem: 33720)
hoc_song_dao_logo-contentHỏi: Xin cha giải thích giùm con sự khác nhau giữa Catholic va Christian.

Roman Catholics are Christian? Nếu gọi chung chung những người theo Thiên Chúa giáo là Christian thì đúng, nhưng để xác nhận mình là người Công giáo thì mình phải nói là “I’m Catholic”, chứ không thể “I’m Christian”, có đúng không?

Tui ban con o day no “cai nhau” ve vu nay, no noi la Catholic la Christian, nhung con thay la Christian noi ve nhung nguoi Tin Lanh, Chinh Thong Giao, Anh Giao,v.v. con có giải thich cho tui no biet mot it su khac nhau giua Catholic va Christian, chang han nhu CG tin Đức Mẹ dong trinh va tin cac thanh thong cong, trong khi Christian thi khong. Nhung chuyen lien quan den ton giao va chinh tri con rat ngai noi, vi se co nguoi khong cung quan diem voi minh, nhung tui no cu khang khang, lam con cũng…..ngứa miệng.


Hi Nancy,


*Về cách xưng hô:


1-Nhieu nguoi nhan minh la catholic, nhung cung co nhieu nhóm catholic...vd nhóm Old Catholic...Old Roman Catholic...Liberal Catholic...

Để rõ ràng, chúng ta là Roman Catholic, có -pope Benedict 16 (from St. Peter the first Pope until now 266 popes), -có 7 Bí tích, -có Đức Mẹ Maria, -có các linh mục sống độc thân.


2-Gọi chung là Christians (những người tin theo Chúa Kito) gồm: (1Roman Catholic (duy nhất), 2Oxthodos (nhiều nhánh khác nhau), 3Protestant (cả trăm phái khác nhau), 4Anglican (đang trở về hợp nhất với RCatholic)).


-Con không nói: I am a Christian, nhưng tốt hơn nên nói: I am a Roman Catholic, my Pope is Benedict 16.


- Không nên ngứa miệng, vì dù họ thua lý, họ cũng không phục mình, không theo mình.


Nên nhớ câu tục ngữ" Không ăn thua đủ" that's mean: Don't argue with anyone, especially about religion or politic///.

Trả lời: như đã giải thích trong bài trước, cả ba Nhánh Kitô Giáo trên đây, từ đầu, đều thuộc Đạo Thánh của Chúa Kitô gọi chung là KitôGiáo (Christianity). Nhưng theo dòng thời gian, đã có những biến cố gây ra tình trạng rạn nứt hay ly giáo (schisms) hoặc những cải cách (reformations) đáng tiếc xảy ra khiến KitôGiáo bị phân chia thành 3 Nhánh chính trên đây. Ngoài ra, còn một nhánh Kitô Giáo nữa là Anh Giáo ( Anglican Communion) do vua Henri VIII (1491-1547) của nước Anh chủ xướng năm 1534 để lập một Giáo Hội riêng cho Nước Anh, tách khỏi Rôma chỉ vì Tòa Thánh La Mã ( Đức Giáo Hoàng Clement VII) không chấp nhận cho nhà vua ly di để lấy vợ khác.

Cho đến nay, các nhóm ly khai trên vẫn chưa hiệp thông được với Giáo Hội Công Giáo vì còn nhiều trở ngại chưa vượt qua được.. Nguyên nhân thì có nhiều, nhưng giới hạn trong câu hỏi được đặt ra, tôi chỉ xin nên sau đây những dị biệt căn bản giữa ba Nhánh Kitô Gíáo lớn trên đây mà thôi.

I-Chính Thống (orthodoxy) khác biệt với Công Gíáo La Mã ( Roman Catholicism) ra sao?

Trước hết, danh xưng Chính Thống "Orthodoxy", theo ngữ căn (etymology) Hy lạp " orthos doxa", có nghĩa là "ca ngợi đúng (right-praise), "tin tưởng đúng " ( right belief) . Danh xưng này được dùng trước tiên để chỉ lập trường của các giáo đoàn đã tham dự các Công Đồng đại kết (Ecumenical Councils) Nicêa I (325) Ephêsô (431) và nhất là Chalcedon (451) trong đó họ đã đồng thanh chấp thuận và đề cao những giáo lý được coi là chân chính( sound doctrines) , tinh tuyền của KitôGíáo để chống lại những gì bị coi là tà thuyết hay lạc giáo (heresy).Do đó,trong bối cảnh này, từ ngữ "orthodoxy" được dùng để đối nghịch với từ ngữ " heresy" có nghĩa là tà thuyết hay lạc giáo. Nhưng sau biến cố năm 1054 khi hai Giáo Hội Kitô Giáo Hy Lạp ở Constantinople( tượng trưng cho Đông Phương) và Giáo Hội Công Giáo LaMã ( Tây Phương) đã xung đột và ra vạ tuyệt thông cho nhau ( anthemas=excommunications) ngày 16 tháng 7 năm 1054 giữa Michael Cerularius, Thượng Phụ Constantinople và Đức cố Giáo hoàng Leo IX vì có những bất đồng lớn về tín lý, thần học và quyền bính, thì danh xưng "Chính Thống" ( orthodoxy) lại được dùng để chỉ Giáo Hội Hy Lạp ở Constantinople đã ly khai không còn hiệp thông với Giáo Hội Công Giáo La Mã. Sau này, Giáo Hội "Chính Thống" Hy Lạp ở Constantinople đã lan ra các quốc gia trong vùng như Thổ nhĩ Kỳ, Nga, Albania, Estonia, Cyprus, Finland, Latvia, Lithuania, Rumania, Bulgaria, Serbia, Ukraine...Vì thế, ở mỗi quốc gia này cũng có Giáo Hội Chính Thống nhưng độc lập với nhau về mọi phương diện.Nghĩa là không có ai là người lãnh đạo chung của các Giáo Hội này, mặc dù họ có tên gọi chung là các Giáo Hội Chính Thống Đông Phương ( Eastern Orthodox Churches) tách khỏi khỏi Giáo Hội Công Giáo La Mã.(Tây Phương)

Tuy nhiên, hiện nay Thượng Phụ ( Patriarch) Giáo Hội Chính Thống Thổ Nhĩ Kỳ ở Istanbul được coi là Thượng Phụ Đại Kết ( Ecumenical Patriarch) của các Giáo Hội Chính thông Đông Phương.Cách nay 2 năm Đức Thánh Cha Bê-nê-đich tô 16 đã sang thăm Đức Thượng phụ Giáo Chủ Chính Thống Thổ để tỏ thiện chí muốn đối thoại, đưa đến hiệp thông giữa hai Giáo Hội anh em. Riêng Giáo Hội Chính Thống Nga, cho đến nay, vẫn chưa tỏ thiện chí muốn xích gần lại với Giáo Hội Công Giáo La Mã, vì họ cho rằng Công Giáo muốn "lôi kéo" tín đồ Chính Thống vào Công Giáo sau khi chế độ cộng sản ở Nga tan rã, tạo điều kiện thuận lợi cho Giáo Hội Chính Thông Nga hành Đạo.

Trước khi xẩy ra cuộc ly giáo năm 1054, hai Nhánh Kitô giáo lớn ở Đông và Tây phương( The Greek Church and the Holy See=Rome) nói trên vẫn hiệp thông trọn vẹn với nhau về mọi phương diện vì cả hai Giáo Hội anh em này đều là kết quả truyền giáo ban đầu của các Thánh Tông Đồ Phêrô và Anrê. Lịch sử truyền giáo cho biết là Thánh Phêrô đã rao giảng Tin mừng ở vùng đất nay là lãnh địa của Giáo Hội Công Giáo La Mã (Roma) trong em ngài, Thánh Anrê (Andrew) sang phía Đông để rao giảng trước hết ở Hy lạp và sau đó trong phần đất nay là Thổ Nhĩ Kỳ (Turkey). Như thế, cả hai Giáo Hội KitôGiáo Đông Phương Constantinople và Tây Phương Rôma đều có nguồn gốc Tông đồ thuần túy ( Apostolic succession).

Sau đây là những điểm gây bất đồng khiến đi đến ly giáo (schism) Đông Tây

1- về tín lý, Giáo Hội Chính Thống Đông Phương- tiêu biểu ban đầu là Giáo Hội Hy Lạp ở Constantinople- bất đồng với Giáo Hội Công Giáo La Mã về từ ngữ “ Filioque” ( và Con) thêm vào trong Kinh Tin Kính Nicêa tuyên xưng “Chúa Thánh Thần bởi Chúa Cha, và Chúa Con mà ra”.

Giáo Hội Chính Thông Đông Phương cũng không công nhận các tín điều về Đức Mẹ Vô Nhiễm Thai (Immaculate Conception) và Lên Trời cả hồn xác (Assumption) mặc dù họ vẫn tôn kính Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa (Theotokos). Sở dĩ thế, vì họ không công nhận vai trò lãnh đạo Giáo Hội của Đức Giáo Hoàng, nên đã bác bỏ mọi tín điều được các Đức Giáo Hoàng công bố với ơn bất khả ngộ (Infallibility) mà Công Đồng Vaticanô I (1870) đã nhìn nhận.

Chính vì họ không công nhận quyền và vai trò lãnh đạo Giáo Hội hoàn vũ của Đức Giáo Hoàng Rôma, nên đây là trở ngại lớn nhất cho sự hiệp nhất (unity) giữa hai Giáo Hội Chính Thống và Công Giáo cho đến nay, mặc dù hai bên đã tha vạ tuyệt thông cho nhau sau cuộc gặp gỡ lịch sử giữa Đức Thánh Cha Phaolô VI và Đức Thượng Phụ Giáo Chủ Constantinople là Athenagoras I năm 1966.

Giáo Hội Chính Thống có đủ bảy bí tích hữu hiệu như Công Giáo. Tuy nhiên, với bí tích rửa tội thì họ dùng nghi thức dìm xuống nước (immersion) 3 lần để nhấn mạnh ý nghĩa tái sinh vào đời sống mới, trong khi Giáo Hội Công Giáo chỉ dùng nước đổ trên đầu hay trán của người được rửa tội để vừa chỉ sự tẩy sạch tội nguyên tổ và các tội cá nhân ( đối với người tân tòng) và tái sinh vào sự sống mới, mặc lấy Chúa Kitô.

2-Về phụng vụ, Giáo Hội Chính Thống dùng bánh có men (leavened bread) và ngôn ngữ Hy lạp khi cử hành phung vụ trong khi Giáo Hội Công Giáo dùng bánh không men (unleavened bread) và tiếng Latinh trong phụng vụ thánh trước Công Đồng Vaticanô II, và nay là các ngôn ngữ của mọi tín hữu.

3-Sau hết, về mặt kỷ luật giáo sĩ: Giáo Hội Chính Thông cho phép các phó tế và linh muc được kết hôn trừ Giám mục, trong khi kỷ luật độc thân (celibacy) lại được áp dụng cho mọi cấp bậc trong hàng giáo sĩ và tu sĩ Công Giáo, trừ phó tế vĩnh viễn (pernanent deacons).

Đó là những khác biệt căn bản giữa Giáo Hội Chính Thống Đông Phương và Giáo Hội Công Giáo La Mã.

Tuy nhiên, dù có những khác biệt và khó khăn trên đây, Giáo hội Công Giáo và Giáo Hội Chính Thống Đông Phương đều rất gần nhau về nguồn gốc tông đồ và về nền tảng đức tin, giáo lý, bí tích và Kinh thánh. Vì thế, giáo lý của Giáo Hội Công Giáo đã dạy rằng: “Đối với các Giáo Hội Chính thống, sự hiêp thông này sâu xa đến nỗi “chỉ còn thiếu một chút là đạt được mức đầy đủ để có thể cho phép cử hành chung phép Thánh Thể của Chúa Kitô” (x.SGLGHCG, số 838).

II- Tin lành ( Protestantism) và những khác biệt với Công Giáo.

Như đã nói trong bài trước, Tin lành, nói chung, là Nhánh KitôGíao đã tách ra khỏi Giáo Hội Công Giáo sau những cuộc cải cách tôn giáo do Martin Luther, một linh mục Dòng thánh Augustinô, chủ xướng vào năm 1517 tại Đức và lan sang Pháp với John Calvin và Thụy sỹ với Ulrich Zwingli và các nước Bắc Âu sau đó.

Điểm căn bản trong nền thần học của Tin Lành là con người đã bị tội tổ tông phá hủy mọi khả năng hành thiện rồi (làm việc lành), nên mọi nỗ lực cá nhân để được cứu rỗi đều vô ích và vô giá trị. Chỉ cần tuyên xưng đức tin vào Chúa Kitô dựa trên Kinh Thánh là được cứu rỗi mà thôi. (Sola fide, sola scriptura). Ngược lại, Giáo Hội Công Giáo tin rằng con người vẫn có trách nhiệm cộng tác với ơn Chúa để được cứu rỗi. Nói khác đi, muốn được cứu độ, con người phải cậy nhờ trước hết vào lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa và công nghiệp cứu chuộc vô giá của Chúa Kitô, nhưng cũng phải có thiện chí công tác với ơn thánh để sống và thực thi những cam kết khi được rửa tội. Nếu không, Chúa không thể cứu ai được như Chúa Giêsu đã nói rõ: “không phải bất cứ ai thưa với Thầy: lạy Chúa, lạy Chúa là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ có ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi.” (Mt 7:21).

chỉ trích Giáo Hội Công giáo là ‘lạc giáo=heretical” vì đã cho gọi Linh mục là “ Cha” (Father, Père, Padre)!.

Thật ra, Giáo Hội cho phép gọi như vậy, vì căn cứ vào giáo lý của Thánh Phaolô, và dựa vào giáo lý này, Công Đồng Vaticanô II trong Hiến Chế Tín lý Lumen Gentium đã dạy rằng; “ Linh mục phải chăm sóc giáo dân như những người cha trong Chúa Kitô vì đã sinh ra họ cách thiêng liêng nhờ phép rửa và giáo huấn.” (1 Cor 4: 15; LG. số 28).

vì họ cho rằng Mẹ Maria đã sinh thêm con cái sau khi sinh Chúa Giêsu. Nghĩa là họ chỉ tin Đức Mẹ đồng trinh cho đến khi sinh Chúa Giêsu mà thôi.

Sau hết, về mặt quyền bình, các giáo phái Tin lành đều không công nhận Đức Giáo Hoàng là Đại Diện duy nhất của Chúa Kitô trong sứ mạng chăn dắt đoàn chiên của Người trên trần thế.

3- về bí tích:

Tất cả các nhóm Tin Lành đều không có các bí tích quan trọng như Thêm sức, Thánh Thể, Hòa giải, Sức Dầu bệnh nhân và Truyền Chức Thánh

cầu nguyện trong nhiều năm qua.

Chúng ta tiếp tục cầu xin


http://tailieuThanhMau.net
Số lượng các hồng y cử tri, sẽ đến Roma từ khắp nơi trên thế giới, những hồng y nào dưới 80 tuổi sẽ được phép bầu phiếu trong các cuộc họp kín bầu Giáo hoàng. Conclave (Cơ mật viện) là những cuộc họp bầu phiếu "bí mật chặt chẽ nhất," để bảo tồn tính khách quan của thủ tục. Theo Tông huấn "Universi Dominici Gregis" của Đức Gioan Phaolô II ban hành năm 1996, các Hồng y cử tri phải "hứa và thề ... giữ bí mật nghiêm ngặt" về tất cả mọi chuyện, bất cứ cách nào liên quan đến cuộc bầu cử Giáo Hoàng.
Số lượng các hồng y cử tri, sẽ đến Roma từ khắp nơi trên thế giới, những hồng y nào dưới 80 tuổi sẽ được phép bầu phiếu trong các cuộc họp kín bầu Giáo hoàng. Conclave (Cơ mật viện) là những cuộc họp bầu phiếu "bí mật chặt chẽ nhất," để bảo tồn tính khách quan của thủ tục. Theo Tông huấn "Universi Dominici Gregis" của Đức Gioan Phaolô II ban hành năm 1996, các Hồng y cử tri phải "hứa và thề ... giữ bí mật nghiêm ngặt" về tất cả mọi chuyện, bất cứ cách nào liên quan đến cuộc bầu cử Giáo Hoàng.
Người ta nói rằng: Đã là con người ai cũng có thể sai lầm. Mà Đức Giáo Hoàng là con người, nên ngài cũng có thể sai lầm. Vậy khi nào Đức Giáo Hoàng được ơn không sai lầm? Xin Cha cho biết nguồn gốc tín điều Đức Giáo Hoàng bất khả ngộ, để chúng con khỏi bị người ta dụ dỗ phản lại niềm tin này. (một người trẻ)
Số lượng các hồng y cử tri, sẽ đến Roma từ khắp nơi trên thế giới, những hồng y nào dưới 80 tuổi sẽ được phép bầu phiếu trong các cuộc họp kín bầu Giáo hoàng. Conclave (Cơ mật viện) là những cuộc họp bầu phiếu "bí mật chặt chẽ nhất," để bảo tồn tính khách quan của thủ tục. Theo Tông huấn "Universi Dominici Gregis" của Đức Gioan Phaolô II ban hành năm 1996, các Hồng y cử tri phải "hứa và thề ... giữ bí mật nghiêm ngặt" về tất cả mọi chuyện, bất cứ cách nào liên quan đến cuộc bầu cử Giáo Hoàng.
Con người có trí khôn, dù đồng tính hay không đồng tính vẫn có thể sống trong sạch, vẫn có thể làm những chuyện tốt xây dựng đời sống mình, giúp đỡ cha mẹ anh chị em trong gia đình, và làm việc bác ái xã hội, xây dựng Giáo hội được như người khác. Bà tin đi: Chúa, Đức Mẹ, và Hội Thánh vẫn yêu thương cháu, còn thương nhiều hơn bình thường nữa.
Những người tin theo Kinh thánh, những tôn giáo theo Chúa Kitô dựa vào đâu để cho phép hôn nhân đồng tính. Luật luân lý phải dựa vào Kinh thánh của Thiên Chúa là tiêu chuẩn tối cao, chứ không dựa vào ý kiến đa số, bất toàn của loài người. Nếu mục đích của hôn nhân là sinh con cái "hãy sinh sản đầy mặt đất" (Sáng thế 1,28), thì hôn nhân đồng tính không phải là tự nhiên, nhưng chỉ là bệnh hoạn, chỉ là cách giải quyết sinh lí, tình dục với nhau, chứ không nhằm thể hiện ý Đấng Tạo hóa, cho dù có xin con nuôi. Con nuôi đâu phải con đẻ tự nhiên do vợ chồng yêu nhau mà sinh ra.
Hiện nay, hầu hết các quốc gia trên thế giới (kể cả Việt Nam) không cấm đoán quan hệ tình dục giữa những người từ 18 tuổi trở lên. Một số địa phương công nhận đồng quyền, và đối xử những cặp đồng tính như vợ chồng. Một số địa phương khác, như các nước Hồi giáo, đòi hỏi những người đồng tính quan hệ với những người khác giới tính (và có thể phạt rất nặng, kể cả bằng tử hình). 2. Đồng tính do bẩm sinh hay ảnh hưởng xã hội? Nhiều nhà nghiên cứu đã tìm ra nhiều hiện tượng đồng tính luyến ái trong các động vật như loài khỉ, chim cánh cụt và cừu. Hiện nay vẫn có nhiều bàn cãi về đồng tính luyến ái: nó bẩm sinh hay là theo sự ảnh hưởng của xã hội?
Tại một nơi kia, khi hô hào giáo dân đóng góp tiền bạc cho giáo xứ, cộng đoàn làm cái này cái nọ, linh mục nói "khó nghe" rằng:" người Tin lành đóng góp cho nhà thờ của họ 10% lợi tức trong tuần, còn anh chị em thì…hẹp hòi!"... Xin hỏi bên đạo Công giáo, có luật nào phải đóng 10 % không mà cha ấy nói như vậy?
Về phần đạo, trong 10 điều răn Chúa, có điều thứ 8: "chớ làm chứng dối". Giáo lý Công giáo giải thích: (số 2484): “Sự nặng nề của tội nói dối được đo theo sự thật mà người đó đã bóp méo, theo các hoàn cảnh, theo ý hướng của người phạm tội nói dối và theo những sự thiệt hại mà nạn nhân của sự nói dối phải chịu. Tự nó, nói dối là một tội nhẹ, nhưng nó trở thành tội trọng khi nó phạm đến đức công bằng và đức bác ái cách nghiêm trọng”. Do nguyên tắc trên, kết hôn giả là tội nặng, vì nhờ kết hôn giả, người ta kiếm được một số tiền lớn. Nhưng nếu người ta chỉ làm “không công “ vì tình nghĩa để đưa người thân nhân vào Mỹ, thì có thể được giảm qui trách trước mặt Chúa, nhưng
Con có ý kiến về chuyện này thì có nhiều người nói: Thời buổi bây giờ hiện đại, trai gái quen biết nhau thoái mái có sao đâu, có ai dám nói là mình không có tội không? Người ta ở chung một phòng, nhưng đâu có biết họ có have sex hay không mà nói? Nhưng theo con nghĩ, và theo luật Hội Thánh: chỉ có vợ chồng thì mới ở chung, ngủ chung phòng với nhau, với người Công Giáo ăn ở với nhau trước hôn nhân thì đã là tội trọng. Có người nói nếu là tội thì thiên hạ ai cũng phạm rồi. Con có ý kiến thì họ nói con là lạc hậu. Xin cha cho con ý kiến về chuyện này.
" Những việc khiêu vũ tự nó không phải là xấu, cũng không là một hành vi dâm đãng, nhưng là một niềm vui, miễn là: a. Người tham dự không có chủ ý xấu. b. Không có nguy hiểm kích thích dục vọng chính mình hay người khác hoặc c. Không tổ chức trong một hoàn cảnh đáng trách.
Những điều trên là những tư cách tốt để đi tu, để trở nên linh mục tu sĩ tốt, đạo đức, thánh thiện, tương tự như chia thành 3 chữ T cho dễ nhớ: 1. Thể: Khỏe mạnh, không tật nguyền, 2. Trí: Học lực khá, thông minh càng tốt, nhưng cần khiêm tốn, 3. Tâm: với mình: thật thà, trong sạch, với người: bác ái, hi sinh, với Chúa: cầu nguyện, tôn vinh. Đây là những điều lý tưởng, xứng đáng cho người tu. Vậy nếu người trẻ nào thấy lòng ham thích tu, thích nên người tốt, thích phục vụ tha nhân, đó là dấu tốt, hãy gắng mấy điều sau trong thời gian đợi đi tu:
Những điều trên là những tư cách tốt để đi tu, để trở nên linh mục tu sĩ tốt, đạo đức, thánh thiện, tương tự như chia thành 3 chữ T cho dễ nhớ: 1. Thể: Khỏe mạnh, không tật nguyền, 2. Trí: Học lực khá, thông minh càng tốt, nhưng cần khiêm tốn, 3. Tâm: với mình: thật thà, trong sạch, với người: bác ái, hi sinh, với Chúa: cầu nguyện, tôn vinh. Đây là những điều lý tưởng, xứng đáng cho người tu. Vậy nếu người trẻ nào thấy lòng ham thích tu, thích nên người tốt, thích phục vụ tha nhân, đó là dấu tốt, hãy gắng mấy điều sau trong thời gian đợi đi tu:
Những điều trên là những tư cách tốt để đi tu, để trở nên linh mục tu sĩ tốt, đạo đức, thánh thiện, tương tự như chia thành 3 chữ T cho dễ nhớ: 1. Thể: Khỏe mạnh, không tật nguyền, 2. Trí: Học lực khá, thông minh càng tốt, nhưng cần khiêm tốn, 3. Tâm: với mình: thật thà, trong sạch, với người: bác ái, hi sinh, với Chúa: cầu nguyện, tôn vinh. Đây là những điều lý tưởng, xứng đáng cho người tu. Vậy nếu người trẻ nào thấy lòng ham thích tu, thích nên người tốt, thích phục vụ tha nhân, đó là dấu tốt, hãy gắng mấy điều sau trong thời gian đợi đi tu:
Những điều trên là những tư cách tốt để đi tu, để trở nên linh mục tu sĩ tốt, đạo đức, thánh thiện, tương tự như chia thành 3 chữ T cho dễ nhớ: 1. Thể: Khỏe mạnh, không tật nguyền, 2. Trí: Học lực khá, thông minh càng tốt, nhưng cần khiêm tốn, 3. Tâm: với mình: thật thà, trong sạch, với người: bác ái, hi sinh, với Chúa: cầu nguyện, tôn vinh. Đây là những điều lý tưởng, xứng đáng cho người tu. Vậy nếu người trẻ nào thấy lòng ham thích tu, thích nên người tốt, thích phục vụ tha nhân, đó là dấu tốt, hãy gắng mấy điều sau trong thời gian đợi đi tu: