Bản tính là Tình Yêu Thương Xót của Thiên Chúa, Đấng Tự Hữu, Toàn Hữu và Hằng Hữu, Đấng là Tình Yêu tự phát, Tình Yêu toàn hảo và Tình Yêu thủy chung, không một tạo vật nào, dù thông sáng như thiên thần, có thể biết được trừ chính bản thân Thiên Chúa, Đấng đã tự tỏ mình ra để tạo vật của Ngài có thể nhận biết Ngài và nhờ đó được hiệp thông thần linh với Ngài.
Vì là Tình Yêu Thương Xót, ngay từ ban đầu đã bao gồm và hướng về những gì bất toàn, thấp hèn và khốn nạn mà Ngài đã có ý định tạo dựng nên tạo vật nói chung và loài người nói riêng, để nhờ đó có thể tỏ hết bản tính là Tình Yêu Thương Xót của Ngài ra.
Tuy nhiên, không phải sau khi Thiên Chúa có ý tạo dựng nên loài người Ngài mới có ý định nhập thể để cứu chuộc loài người, vì Ngài thấy trước được loài người, vì bản chất bất toàn của họ, không toàn hảo như Ngài, chắc chắn sẽ không thể nào không sa phạm, nên cần phải được cứu chuộc, cần phải thương xót, bằng việc sai Con Một của Ngài xuống thế làm người.
Trái lại, chính vì bản tính là Tình Yêu Thương Xót của Chúa Cha, và vì được nhiệm sinh bởi Chúa Cha, "hiện thân đích thực của bản thể Cha" (Do Thái 1:3), Chúa Con thực sự là hiện thân đích thực của bản tính là Tình Yêu Thương Xót của Cha, nghĩa là nơi Chúa Con, từ thuở đời đời, có thể nói "đã" bao gồm và chất chứa tất cả những gì là bất toàn, thấp hèn và khốn nạn của tạo vật nói chung và của loài người nói riêng.
Đó là lý do, mục đích của việc nhập thể và vượt qua của Chúa Kitô là để "tỏ Cha ra" (Gioan 1:18), nhờ đó con người biết được Cha là Tình Yêu Thương Xót: "Cha Thày yêu Thày thế nào Thày cũng yêu các con như vậy" (Gioan 14:9), và Người đã tỏ Cha là Tình Yêu Thương Xót ra, như người môn đệ được Người yêu thương viết: "Người đã yêu thương những ai thuộc về Người ở trên thế gian này thì Người muốn chứng tỏ Người yêu thương họ cho đến cùng" (Gioan 13:1).
Trong Tông Sắc Dung Nhan Thương Xót để mở Năm Thánh Thương Xót, Đức Thánh Cha Phanxicô đã cảm nhận Dung Nhan Thương Xót của Vị Thiên Chúa có Bản tính Thương Xót được tỏ hiện nơi Chúa Giêsu Kitô nhập thể và cứu thế như sau:
"Chúa Giêsu Kitô là dung nhan của tình thương Cha. Những lời này có thể tóm lại rõ ràng mầu nhiệm đức tin Kitô giáo. Tình thương đã trở nên sống động và hữu hình nơi Đức Giêsu Nazarét, đạt đến tột đỉnh của mình nơi Người. ... Đức Giêsu Nazarét là Đấng mạc khải cho thấy tình thương của Thiên Chúa, bằng lời nói của Người, hành động của Người và toàn thể bản thân của Người" (khoản 1).
"Tình yêu này giờ đây đã trở thành hữu hình và khả giác nơi tất cả cuộc đời trần thế của Chúa Giêsu. Bản thân của Người chẳng là gì khác hơn là tình yêu, một tình yêu được tặng ban một cách nhưng không... Hết mọi sự nơi Người đều nói về tình thương. Không một sự gì nơi Người mà lại trống rỗng lòng cảm thương" (khoản 8).
Đúng thế, ngay từ ban đầu, theo dự án thần linh của mình, Thiên Chúa là Tình Yêu Thương Xót đã có ý định nhập thể nơi Con Một của Ngài, tức là Ngài đã muốn tỏ bản tính là Tình Yêu Thương Xót của Ngài ra qua Con Ngài là Lời sẽ hóa thành nhục thể, một bản chất hoàn toàn tương phản với "Thiên Chúa là thần linh" (Gioan 4:24), một bản chất tiêu biểu cho tất cả những gì là tạo vật vô cùng thấp hèn nói chung và loài người vô cùng yếu đuối khốn nạn nói riêng.
Chính việc Thiên Chúa là Tình Yêu Thương Xót tạo dựng nên loài người tạo vật đã chứng tỏ bản tính Tình Yêu Thương Xót của Ngài. Bởi Ngài biết trước rằng loài người tạo vật không tương xứng với Ngài, không phải là đối tượng đáng yêu như Ngài, trái lại, họ lại còn không thể nào biết được Ngài như Ngài biết Ngài mà yêu mến Ngài như Ngài xứng đáng và mong muốn, không thể nào đáp trả tình yêu vô cùng bất tận của Ngài đối với họ v.v. Thế mà Ngài vẫn tạo dựng nên họ, để chỉ cần họ nhận biết Tình Yêu Thương Xót của Ngài là đủ, như Ngài tỏ mình ra cho họ nhất là nơi Lời Nhập Thể là Chúa Giêsu Thiên Sai Cứu Thế.
Tác động thần linh hóa thành nhục thể của Con Thiên Chúa làm người lại càng chứng thực bản tính là Tình Yêu Thương Xót của Thiên Chúa. Ở chỗ, "tuy thân phận là Thiên Chúa, Người đã không tự coi mình cứ phải ngang hàng với Thiên Chúa mới được. Trái lại, Người đã hóa ra hư không, mặc lấy thân phận tôi mọn, sinh ra giống như loài người..." (Philiphe 2:6).
Thật vậy, việc nhập thể của Con Thiên Chúa chính là việc Người đã "hóa ra hư không". Bởi vì, "đồng bản thể với Chúa Cha", Người "ngay từ ban đầu" chẳng những "ở cùng Thiên Chúa" mà còn chính "là Thiên Chúa" (Gioan 1:1). Nghĩa là Người cũng như Cha là Đấng Có, Đấng Tự Hữu, Toàn Hữu và Hằng Hữu. Thế nhưng, khi mặc lấy bản tính loài người là loài đã được dựng nên cho Có từ "hư không", và đối với Thiên Chúa cũng như so với Thiên Chúa loài người vẫn chẳng là gì ngoài "hư không", thì chẳng khác gì Người là Đấng Có thực sự "đã hóa ra hư không".
Việc nhập thể của Con Thiên Chúa làm người, tự bản chất là "hóa ra hư không", nhưng về mục đích là để đi tìm con chiên lạc.
Đúng thế, dụ ngôn đầu tiên trong ba dụ ngôn về Lòng Thương Xót Chúa ở Phúc Âm Thánh ký Luca đoạn 15 là dụ ngôn đi tìm con chiên lạc, và dụ ngôn thứ ba là dụ ngôn người cha chờ đứa con hoang đàng phung phá trở về.
Phải chăng 99 con chiên không lạc đây ám chỉ 9 phẩm thiên thần, (xem về 9 phẩm thiên thần theo Thánh Gregorio Cả - Bài Giảng 34 Về Phúc Âm, và Thánh Toma Tiến Sĩ - Tổng Luận Thần Học I, vấn nạn 108), đã được chủ chiên bỏ lại để đi tìm con chiên lạc duy nhất là loài người trên trần thế này? Và tại sao người cha yêu thương đứa con hoang đàng phung phá không chịu đi tìm con mà chỉ ở nhà chờ nó trở về, nếu không phải là người cha ám chỉ Chúa Cha này đã tìm nó qua Con của Ngài nhập thể giáng sinh.
Và tại sao người cha yêu thương đứa con hoang đàng phung phá không chịu đi tìm con mà chỉ ở nhà chờ nó trở về, nếu không phải là người cha ám chỉ Chúa Cha này đã tìm nó qua Con của Ngài nhập thể giáng sinh.
“Nơi Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa chẳng những nói với loài người mà còn tìm kiếm họ nữa. Việc Con Thiên Chúa nhập thể chứng tỏ là Thiên Chúa đi tìm kiếm con người… Đó là một cuộc tìm kiếm mà khởi điểm bắt đầu từ cõi lòng của Thiên Chúa và đích điểm ở nơi việc nhập thể của Ngôi Lời” (ĐTCGPII - Tông Thư Ngàn Năm Thứ Ba Đang Đến, 10-11-1994)
Tuy nhiên, việc tạo dựng nên loài người vô cùng bất xứng và việc "đã hóa thành hư không" của Lời nhập thể vô cùng cao trọng dầu sao cũng chỉ là khởi điểm và trong tiến trình của dự án Thiên Chúa là Tình Yêu Thương Xót muốn tỏ mình ra. Tột đỉnh của bản tính là Tình Yêu Thương Xót mà Thiên Chúa muốn tỏ ra cho nhân loại biết là ở nơi chính cuộc Vượt Qua của Chúa Kitô, tột đỉnh mạc khải thần linh của Thiên Chúa trong suốt giòng lịch sử cứu độ của dân Do Thái, và là tất cả mạc khải thần linh của Thiên Chúa cho Giáo Hội Chúa Kitô.
Nếu mầu nhiệm nhập thể, tự bản chất, là mầu nhiệm "hóa ra hư không" của Đấng Tự Hữu, Toàn Hữu và Hằng Hữu, thì mầu nhiệm cứu chuộc là một mầu nhiệm "hóa thành tội lỗi", một hiện tượng vô cùng xấu xa phản nghịch cùng bất xứng với Đấng vô tội vô cùng tốt lành thánh hảo như vậy (xem 2Corinto 5:21).
Nếu mầu nhiệm nhập thể là mầu nhiệm Thiên Chúa khỏa lấp khoảng cách giữa Ngài là Tạo Hóa với tạo vật cách biệt nhau như trời cao và đất thấp thế nào thì mầu nhiệm cứu chuộc là mầu nhiệm Thiên Chúa khỏa lấp khoảng cách giữa Ngài là Đấng Toàn Thiện với loài người tội lỗi như khoảng cách giữa mặt đất này và cửa hỏa ngục như vậy.
Cuộc Vượt Qua của Chúa Kitô từ tử giá tới phục sinh là tác động thần linh cho thấy Thiên Chúa là Tình Yêu Thương Xót đã yêu thương nhân loại tội lỗi cho đến cùng: cho đến cùng ở nơi Chúa Kitô, cho đến cùng ở nơi nhân loại, và cho đến cùng ở nơi Thiên Chúa.
Chúa Kitô, Lời nhập thể, là hiện thân của Tình Yêu Thương Xót là bản tính của Chúa Cha, trước hết, đã yêu thương những kẻ thuộc về Người đến cùng ở chỗ "hiến mạng sống vì chiên, cho chiên được sự sống và là sự sống viên mãn" (Gioan 10:10): "Không còn tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của kẻ hiến mạng sống mình cho bạn hữu của mình" (Gioan 15:13).
Là hiện thân của Cha là Tình Yêu Thương Xót, sau nữa, Chúa Kitô đã yêu thương những kẻ thuộc về Người cho đến cùng, ở chỗ Người đã yêu thương cho đến con chiên lạc duy nhất cuối cùng (xem Luca 15:1-7), điển hình nhất là người môn đệ Giuđa Íchca, một trong những kẻ thuộc về Người, người môn đệ được Thánh ký Gioan nhắc đến 5 lần ở đoạn Phúc Âm 21 câu, trong biến cố Người rửa chân cho các tông đồ trước Bữa Tiệc Ly và cũng được Người rửa chân cho như các tông đồ khác (xem Gioan 13:2,3,11,18,21).
Sau hết, là Dung Nhan Thương Xót của Chúa Cha và cho Chúa Cha là Tình yêu Thương Xót, Chúa Kitô còn yêu thương những kẻ thuộc về Người cho đến cùng ở chỗ "Cha Thày yêu Thày thế nào Thày cũng yêu thương các con như vậy" (Gioan 15:9), nghĩa là yêu như Cha yêu, yêu thương hết cỡ, yêu thương đến độ không còn yêu thương hơn được nữa, yêu như Thiên Chúa muốn, yêu như Thiên Chúa là Tình Yêu Thương Xót, ở chỗ "Chúa Trời Tôi ơi, Chúa Trời Tôi ơi, nhân sao Ngài lại bỏ rơi Tôi" (Mathêu 27:36) - "Cha ơi, Con xin trao phó thần khí của con trong tay Cha" (Luca 23:46).
Tình Yêu Thương Xót là bản tính của Chúa Cha đã thực sự và hoàn toàn tỏ ra nơi tình yêu đến cùng của Chúa Kitô trong cuộc Vượt Qua của Người đối với những ai thuộc về Người. Đến độ Chúa Kitô, Dung Nhan Thương Xót của Chúa Cha đã trở thành đáng thương hơn loài người tội nhân đáng thương. Vì Người là Đấng không hề biết đến tội lỗi đã trở thành tội lỗi vì nhân loại tội lỗi (xem 2Corinto 5:21).
Cho dù con cái loài người không phạm nguyên tội như hai nguyên tổ nhưng vẫn vướng mắc nguyên tội và có nguyên tội nên cần phải được tha nguyên tội thế nào thì, cũng thế, tự mình, Chúa Kitô không hề có tội và phạm tội, như nhân loại, nhưng Người lại là Đấng gánh tội trần gian và như "chiên xóa tội trần gian" (Gioan 1:29), nên Người đã có đủ mọi thứ tội, có nhiều tội nhất, nên đã phải hứng chịu hậu quả vô cùng khốn nạn của tội lỗi, đến độ đã trở nên một thứ đồ bị nguyền rủa (xem Galata 3:13) đáng kinh tởm nhất trên trần gian này và là một vật khốn nạn nhất trong lịch sử loài người.
Chính vì thế mà tình yêu thương cho đến cùng của Chúa Kitô đối với những ai thuộc về Người là chung nhân loại và riêng Giáo Hội không phải là một thứ lòng thương hại, của người trên đối với người dưới, của kẻ sang đối với người hèn, của người may mắn đối với người bất hạnh v.v., mà là một tình thương yêu, như người Samaritano nhân lành (xem Luca 10:25-37).
Nếu Chúa Kitô là Người Samaritanô chỉ tỏ lòng thương hại nạn nhân không phải người đồng hương hay thân thương của mình bị lọt vào tay bọn cướp đang ngấp ngoái nửa sống nửa chết bên đường thì Người chỉ cần quan sát nạn nhân xong, liền quẳng xuống cho nạn nhân những thứ đồ băng bó cần thiết kèm theo ít đồng bạc rồi bỏ đi, còn hơn hai nhà đạo là vị tư tế và Thày Levi đã lạnh lùng bỏ đi trước đó, cho dù nạn nhân là người đồng hương của họ.
Nhưng không, qua thái độ và hành động quả thực là thương yêu hơn là thương hại của Người Samaritano nhân lành đối với nạn nhân vất vưởng bên đường không ai thèm ngó ấy, như Thánh ký Luca thuật lại, Người Samaritanô Nhân Lành đã chẳng những xót xa thân phận của nạn nhân, mà còn chịu khổ với nạn nhân, như nạn nhân, thay nạn nhân và cho nạn nhân nữa, tức là, theo dụ ngôn diễn tả, Người đã trở thành ngang hàng với nạn nhân mà còn trở thành phục vụ viên hết sức khổ nhọc với nạn nhân, như nạn nhân nạn nhân, thay nạn nhân và cho nạn nhân nữa, đến độ Người trở thành đáng thương hơn nạn nhân đáng thương, khi quì xuống như một đầy tớ hầu hạ rửa chân cho môn đệ. Ở chỗ:
1- động lòng thương (câu 33),
2- tự động xuống lừa,
3- tiến đến gần nạn nhân (câu 34),
4- xoa dầu và rượu vào thương tích của nạn nhân (câu 34),
5- một mình nâng nạn nhân nặng nề lên lưng lừa, thay hẳn vị trí chỗ ngồi trên cao của mình (câu 34),
6- vất vả đem nạn nhân một cách từ từ và nhẹ nhàng đến tận quán trọ (câu 34),
7- săn sóc nạn nhân qua đêm (câu 34),
8- trang trải chi phí cho nạn nhân để nạn nhân được chủ quán chăm sóc thay cho mình (câu 35),
9- cho đến khi trở lại để thanh toán những gì còn thiếu của nạn nhân (câu 35),
10- dù lúc bấy giờ nạn nhân không còn ở đó để mà cám ơn vị đại ân nhân của mình.
Lạy Thánh Tâm Chúa Giêsu hiền lạnh và khiêm nhượng trong lòng, xin hoán cải con trở nên như những trẻ nhỏ của Lòng Thương Xót Chúa, để con biết nhìn anh chị em con bằng ánh mắt của tình yêu vô cùng nhân hậu Chúa như Mẹ Maria, cho tất cả được hiệp nhất nên một trong Cha và Con và Thánh Thần. Amen.
Tóm kết:
1- Chúa Con là Dung Nhan Thương Xót: "Ai thấy Thày là thấy Cha" (Gioan 14:9) nhưng cho đến độ Chúa Cha không còn nhận ra Người nữa - "Chúa Trời tôi ơi, Chúa Tròi tôi ơi, sao Ngài lại bỏ rơi tôi" (Mathêu 27:46).
2- Là Dung Nhan Thương Xót không thể nào không tỏ hiện nơi mầu nhiệm nhập thể, ở chỗ "hóa thành hư không" (Philiphê 2:6) và tìm kiếm chiên lạc (xem Luca 15:1-7).
3- Là Dung Nhan Thương Xót không thể nào không tỏ hiện nơi mầu nhiệm tử giá, ở chỗ "hóa thành tội lỗi" (2Corinto 5:21) và "yêu cho đến cùng" (Gioan 13:1).
4- Là Dung Nhan Thương Xót nhập thể tử giá nơi Chúa Giêsu Kitô, LTXC tỏ ra vô cùng khao khát (xem Gioan 19:28) cái khát của con người (xem Gioan 4:15) - "Giêsu ơi, con tin nơi Chúa!"
Bởi thế, trong Nhật Ký của Chị Thánh Faustina, Chúa Giêsu là Dung Nhan Thương Xót của Vị Thiên Chúa có bản tính thương xót đã mạc khải cho nữ tu sứ giả thương xót này tất cả sứ điệp về LTXC đó là lời những chữ in ở dưới cuối bức ảnh LTXC kêu gọi các linh hồn hãy tuyệt đối tin tưởng vào LTXC như sau:
"Giữa Cha và con có một vực thẳm vô đáy, một vực thẳm phân chia Tạo Hoá với tạo vật. Thế nhưng, vực thẳm này đã được tình thương của Cha lấp đầy". (Nhật Ký 1576)
“Cha bị tổn thương đau đớn biết bao khi lòng thiện hảo của Cha bị ngờ vực! Những tội bất tin tưởng đả thương Cha nhức nhối nhất”. (Nhật Ký 1076)
(Bài này đã được Nguyệt San Hiệp Nhất của Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam Giáo Phận Orange phổ biến ở số báo Tháng 10/2016)
TĐCTT Đaminh Maria cao tấn tĩnh, BVL